'
Bài làm
Lâu nay, nhiều người khi tiếp xúc với Tây Tiến của Quang Dũng thường bị mê hoặc bởi một âm điệu lạ lùng.
Chỉ phần đầu của bài thơ thôi, cảm xúc về một thế giới Tây Tiến đã mở ra, rồi đóng lại mãi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.,
Phải chăng thế giới ấy đã chiếm một vị trí riêng có, duy nhất trong lòng nhà thơ khiến người Tây Tiến – Quang Dũng không thể nào quên?
Tây Tiến mở đầu bằng một tiếng kêu, tiếng kêu có phần thảng thốt, buộc miệng mà kêu:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Liền sau đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ tràn vê, bất chợt và ào ạt, đến nỗi không còn hiện tại. Con người chìm đắm trong quá khứ, sống với thời đã qua. Và thơ, đã hiện tại hóa cái thời đã mất ấy, biến nó hiển hiện trước mặt. Khả năng hiện thực hóa của thơ mạnh đến nỗi nếu ngắt đi hai câu đầu và hai câu cuối của đoạn thứ nhất, người ta nghĩ mình đang sống với Tây Tiến:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhưng thực ra, đó là hiện thực qua nỗi nhớ, hiện tại trong hoài niệm. Trong tình cảm của con người, buồn, nhớ là những tâm trạng phức tạp, nhiều cung bậc nhất. Khi nhớ, người ta thường rơi vào trạng thái đặc biệt khôn tả, nhiều khi không rõ ràng, mất cả định hướng. Trong bài thơ Việt Bắc, một loại trữ tình tiêu biểu của Tố Hữu và của cả nền thơ kháng chiến chống Pháp, nhưng vẫn có những câu “lạ kỳ”:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
hoặc:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương…
Song, đấy là những câu thơ diễn tả rất đúng tam trạng con người.
Ở Quang Dũng, đó là nỗi “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ khiến lòng người hóa thành chông chênh, bồng bềnh, lơ lửng. Khi đã “chơi vơi” thì khoảng cách không gian như xích lại gần, thời gian đồng hiện. Vì thế, trong một đoạn thơ không dài (14 câu) nhưng xuất hiện hàng loạt địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu và có lẽ còn nhiều địa điểm vô danh khác: dốc khúc khuỷu; dốc thăm thẳm; heo hút cồn mây; ngàn thước lên cao; ngàn thước xuống; gục lên súng mũ… Nếu kể các địa danh ở những khổ thơ còn lại, Tây Tiến rất có thể là bài thơ có nhiều địa danh vào bậc nhất. Chắc chắn, các địa danh, địa điểm ấy phải ở rất xa nhau. Các sự kiện (xảy ra trong từng thời gian) cũng ào ạt xuất hiện: sương lấp; hoa về; mưa xa khơi; thác gầm thét; cọp trêu người; cơm lên khói… Lẽ dĩ nhiên, trong thực tế, các sự kiện không xảy ra cùng lúc. Nhưng trong nỗi nhớ Tây Tiến, nó ùa về, đồng hiện và tràn ngập hồn người. Và, thật kỳ diệu, quá khứ không mất đi mà nguyên vẹn cả hình hài, vóc dáng. Với Quang Dũng, một người Tây Tiến, đã “sống” với Tây Tiến lần thứ mấy. Còn với những ai, không phải người Tây Tiến, qũa thơ, Tây Tiến như đang hiển hiện. Tố Hữu từng nói, văn học giúp con người sống cuộc đời khác nhau là như vậy!
Ở trên, mới chỉ nói đến cái thế, cái uy của nỗi nhớ Tây Tiến. Bây giờ. nói rõ hơn về hiện thực mà nỗi nhớ ấy đã kéo về.
Đầu tiên là cảnh vật, thiên nhiên vùng Tây Bắc mà ngay từ đầu tác giả đã định danh: “rừng núi”, tức là một không gian rộng lớn, ngút ngàn. Ở đó, có sương khói lấp cả bóng người, có đèo dốc khúc khuỷu, có vực sâu thăm thẳm, có cồn mây heo hút, có gió mưa mịt mù… Rõ ràng là một địa hình phức tạp với khí hậu nghiệt ngã, đúng là nơi chốn người xưa thường nói: ma thiêng nước độc! Nhưng với nhiều tâm hồn lãng mạn, dũng mãnh, ưa khám phá, thiên nhiên ấy có lẽ khá kỳ vĩ, thậm chí đẹp nữa. Vả lại, vùng đất ấy còn có “hoa về trong đêm hơi”, có bóng nhà thấp thoáng “mưa xa khơi”, có mùi thơm ấm nồng của “nếp xôi”. Cảnh vật thiên nhiên kỳ vĩ, mới lạ nhưng hấp dẫn hồn người. Nếu bài thơ dừng lại ở câu Mai Châu mùa em thơm nếp xôi hoặc tiếp tục phát triển theo hướng đó thì bảo đây là bài thơ “thơ đường rừng” cũng chẳng sai. Có lần, Quang Dũng tâm sự, hồi còn đi học, nhà thơ rất say mê Thơ mới. Trong số các nhà Thơ mới, Thế Lữ là người ông thích hơn cả, “đặc biệt bài thơ Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó”. Nhà thơ còn nói: Tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ và sau vô tình tôi mới nhận ra…
Nhung đây không phải là thơ đường rừng mà là thơ về anh bộ đội ở trong cuộc đời thực. Khi nhớ về rừng núi cũng là nhớ về nói chôn, con đường hành quân của đoàn quân Tấy Tiến, nhớ về người Tây Tiến. Hình bóng đoàn quân ấy thấp thoáng từ xa, trong sương mù lấp kín rồi hiện dần lên trong cuộc chinh phục địa hình:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Cái nhà của khổ thơ là nói về địa hình trắc trở, không một ngôn từ nào chỉ người (trừ đại từ ai chỉ nơi xa) nhưng bóng dáng con người vẫn hiện ra. Hơn nữa, đó là cuộc hành quân khó khăn, đầy thử thách. Đọc đoạn thơ, người ta không chỉ hình dung từng bước đo khó khăn mà cả hơi thở gấp gáp, mệt mỏi lẫn thế đứng chênh vênh của người vượt dốc. Xưa nay, nhiều người khi phân tích đã chỉ ra rất đúng sự khó khăn của địa hình đối với người lính Tây Tiến trên đường hành quân: khúc khuỷu, thãm thẳm, heo hút, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, ơ câu thơ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống có sự cân đối giữa chiều cao và chiều sâu: lên hay xuống đều ghê gớm cả! Song, cấu trúc của ba câu thơ này còn nhiều đặc biệt hơn nữa, không hẳn là sự đối xứng mà là sự gia tăng, chất chồng:
Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây / súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống.
Đối với người lính Tây Tiến, đường hành quân dường như gian nan cứ dài lên mãi và con người lại phải vượt lên, cứ phải đi tới. Điều lạ là họ không bị địa hình quái ác ấy khuất phục. Phút giây ngắm nhìn Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi càng chứng tỏ đó là những người băng rừng vượt dốc, nhưng không bị gian nan đè chặt tâm hồn, con đường không biến thành nỗi sợ hãi. Bởi vậy, đoạn thơ kế tiếp nêu lên những “thế lực” khác vây lấy người lính Tây Tiến mà chẳng ai sợ hãi:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Có lẽ, nỗi sợ hãi được thay thế bằng sự tò mò, khám phá. Nên nhớ, những thập niên 30, 40 của thế kỉ trước, nhiều thanh thiếu niên Việt Nam rất thích phiêu lưu, mạo hiểm, thích rày đây mai đó để thoát khỏi cuộc sống chật hẹp, nhàm chán. Trước năm 1945, Quang Dùng đã là người như thế. Còn nhiều anh bộ đội Tây Tiến vốn là các chàng trai của đất Hà thành. Ở môi trường mới, hoàn cảnh mới những nét tính cách kia vần còn chăng? Và một khi được khám phá cái mới lạ, dù nguy hiểm, con người vần thích thú hơn là sợ hãi.
Nếu hiểu như vậy thì hai câu thơ: Anh bạn dăi dầu không bưởc nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Không nên cho đấy là cái chết như có người đã phân tích. Hiểu rõ đó là những phút giây mệt mỏi (vì dãi dầu) người lính tạm dựng bước trên đường hành quân sẽ phù hợp hơn. Cũng có thể hiểu một thêm, gốc gác lính Tây Tiến là những chàng trai Hà Nội nên cốt cách đôi khi kiêu bạc, bất cần đời, bạ đâu nghỉ đó, không như người lính Đổng chí của Chính Hữu hay Nhớ của Hồng Nguyên. Vả lại, đây chưa phải là lúc Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến với những hi sinh, mất mát như ở đoạn thơ cuối. Càng không thể cho đây là cái chết bởi hai câu thơ liền kề, kết thúc một trường đoạn hoài niệm, là hình ảnh rất thi vị:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Câu thơ diễn tả khung cảnh thật thanh bình, dường như không hề có chiến tranh. Đó là những khoảnh khắc có thật, dù ít ỏi đi chăng nữa, trên con đường hành quân khắc nghiệt của đoàn quân Tây Tiến. Thời gian càng lùi xa, càng phủ lên làn khói cơm chiều ấy vẻ dẹp của sự bình yên và thán thuộc, càng gây thêm mùi nhớ của hương vị nếp xôi thơm nồng. Câu thơ trên với ba vần trắc (nhớ, Tiến, khói) như chạm khắc làn khói cơm chiều vào bầu trời ký ức. Câu thơ thứ hai hầu hết là vần bằng (chỉ có một vần trắc: nếp) lại đưa đẩy, khuếch tán cái vị ngọt ngào ấy vào sâu tâm hồn con người.
Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi cũng có một từ đặc biệt: mùa em. Khi tiếp xúc với Tây Tiến, ai cũng thừa nhận chính từ ấy đã làm cho câu thơ trở nên lạ lùng và… khó hiểu! Chắc là trước Quang Dũng chưa ai sử dụng mỹ từ đó. Điều mà mọi người đều thừa nhận là khi đã trở thành anh Vệ quốc quân, nhà thơ của chúng ta vẫn là chàng trai hào hoa và… lãng mạn. Ở bài thơ viết năm 1949, sau Tây Tiến một năm, Đôi mắt người Sơn Tây, một bài thơ nói về những mất mát trong chiến tranh còn thảm khốc hơn nhiều, Quang Dũng vẫn còn có những hình ảnh và ngôn từ sang trọng, không kém phần mĩ lệ:
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương…
Chiến tranh không làm mất đi nét hào hoa và lãng mạn ở Quang Dũng. Có lẽ, ở nhà thơ này còn có một thước đo riêng. Đó là thước đo của cái Đẹp và từ phía Đẹp. Thiên nhiên, thời gian cũng được nhà thơ đo bằng thước đo ấy. Người đỡi đâ cố mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Quang Dũng, với Tây Tiến, có thêm ít nhất một mùa nữa. Mùa ấy có chiều kích à đôi mắt và tâm hồn của chính thi nhân.
Sông Mã xa rồi… thơm nếp xôi là một trường đoạn trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến.Nỗi nhớ ấy làm hiện lên một vùng đất với thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa khắc nghiệt, vừa đầy thơ mộng vừa hết sức nguy nan. Nhưng xao động lòng người vẫn là chân dung của những người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng và hào hoa. Cho dù thời gian có biến tất cả trở thành quá khứ nhưng Tây Bắc và người lính Tây Tiến qua thơ Quang Dũng vẫn còn đọng lại mãi.
Bài làm
a. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Cảm xúc ấy là nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Đối tượng của nỗi nhớ thứ nhất ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả. Đối tượng thứ ba của nối nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Điệp từ nhớ được nhắc lại hai lần như khắc sâu thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.
Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ , hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:
Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” sử dụng phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên hình ảnh: núi cao heo hút, mây nổi thành cồn trên đỉnh núi, người lính đi trên đỉnh núi mà như đi trên mây. Mũi súng đeo sau vai như chạm đến trời xanh “ngửi trời”. Thật là một hình ảnh ngạo nghễ có chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.
Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, làm câu thơ như bị bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hùng vĩ, hiểm trở là những nét vẽ đầy thơ mộng trữ tình:
c. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.
d. Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm bụng. Chính nơi đây, mọi khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.
e. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu giá trị.